Giáo Hội Tại Á Châu

 

Á

Châu là một đại lục diễm phúc v́ được Thiên Chúa dùng để mạc khải và hoàn thành dự án cứu độ của Ngài.

 

·        Giáo Hội Tại Á Châu hát lên những lời chúc tụng ‘Thiên Chúa cứu độ’ (Ps 68:20), miền đất Á Châu, qua những con người nam nữ của ḿnh, đă được Ngài chọn làm nơi khởi sự dự án cứu độ của Ngài. Thực vậy, chính ở tại Á Châu, Thiên Chúa đă tỏ ḿnh ra và đă hoàn thành mục đích cứu độ của Ngài ngay từ ban đầu. Ngài đă hướng dẫn các tổ phụ (x. Gen 12) và đă kêu gọi Moisen trong việc giải phóng dân của Ngài (x. Ex 3:10). Ngài đă nói với dân tuyển chọn của Ngài qua nhiều vị tiên tri, quan án, vua chúa và các nữ lưu có một niềm tin dũng cảm. Vào ‘thời điểm viên trọn’ (Gal 4:4), Ngài đă sai Người Con duy nhất của Ngài đến là Chúa Giêsu Kitô Cứu Thế, Đấng mặc lấy xác thịt như là một người dân Á Châu! Hân hoan trong sự tốt lành nơi dân chúng, nơi văn hóa và nơi sức sống đạo đức thuộc đại lục của ḿnh, đồng thời cũng ư thức được tặng ân đặc thù của đức tin đă lănh nhận cho lợi ích của tất cả mọi người, Giáo Hội Tại Á Châu không thể nào không lên tiếng ‘Cảm tạ Chúa v́ Ngài nhân lành, v́ t́nh yêu Ngài muôn đời bền vững’ (Ps 118:1).

 

Bởi Chúa Giêsu được sinh ra, sinh sống, chết đi và sống lại từ cơi chết ở Thánh Địa mà phần đất nhỏ bé Tây Á đó đă trở nên một mảnh đất hứa hẹn và hy vọng cho toàn thể loài người. Chúa Giêsu nh́n nhận và yêu thương mảnh đất này. Người đă biến lịch sử của nó thành lịch sử của ḿnh, những khổ đau và niềm hy vọng của dân ấy thành khổ đau và niềm hy vọng của ḿnh. Người đă yêu thương dân ấy và đă tuân giữ các truyền thống và di sản Do Thái. Thật thế, từ xa xưa Thiên Chúa đă chọn dân này và đă tỏ ḿnh ra cho họ để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Và rồi từ mảnh đất này, qua việc rao giảng Phúc Âm bằng quyền năng Chúa Thánh Thần, Giáo Hội đă ra đi chiêu mộ ‘các môn đồ nơi mọi dân tộc’ (Mt 28:19). Cùng với Giáo Hội khắp thế giới, Giáo Hội Tại Á Châu bước qua ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba Kitô Giáo, chiêm ngưỡng tất cả những ǵ Thiên Chúa đă thực hiện từ ban đầu cho tới nay, với một nhận thức mạnh mẽ là: ‘Thánh Giá được trồng trên đất Âu Châu trong thiên niên thứ nhất, và trong thiên niên thứ hai trên đất Mỹ Châu và Phi Châu thế nào, th́ chúng ta cũng có thể nguyện cầu để trong ngàn năm thứ ba sẽ gặt hái một vụ mùa đức tin dồi dào nơi đại lục rộng lớn và sinh động này’ (ĐTC Gioan Phaolô II, Diễn Tử ngỏ cùng Hội Nghị Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu ngày 15/1/1995, đoạn 11: Insegnamenti XVIII, 1/1995, 159)”.

(ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Thư Giáo Hội Tại Á Châu Ecclesia In Asia, đoạn 1:

tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 10/11/1999)

 

 

Á Châu là một đại lục lớn nhất thế giới và đông dân nhất hoàn cầu, một dân thiên về đạo nghĩa, nơi phát xuất ra mọi thứ đạo giáo lớn chính yếu trên thế giới:

 

·        Á Châu là một địa lục lớn nhất trái đất và là nơi cư ngụ của gần hai phần ba dân số thế giới, nguyên Trung Hoa và Ấn Độ đă chiếm gần nửa tổng số dân trên hoàn vũ. Đặc tính nổi bật nhất của địa lục này là những nét khác nhau của dân chúng, thành phần là ‘con cháu thừa hưởng các nền văn hóa, tôn giáo và truyền thống cổ kính’ (Propositio, đoạn 3). Chúng ta không khỏi lạ lùng trước toàn khối dân Á Châu cũng như trước một bức họa phức hợp cấu tạo nên bởi nhiều thứ văn hóa, ngôn ngữ, niềm tin và truyền thống, là tất cả những ǵ bao gồm cả một phần trọng yếu nơi lịch sử cũng như truyền thống của gia đ́nh nhân loại như thế.

 

Á Châu cũng là một cái nôi của các tôn giáo chính trên thế giới, như Do Thái Giáo, Kitô Giáo, Hồi Giáo và Ấn Giáo. Nó là nơi sinh trưởng của nhiều truyền thống về tâm linh khác nữa, như Phật Giáo, Lăo Giáo, Khổng Giáo, Zoroastrianism, Jainism, Sikhism và Nhật Giáo. Nhiều triệu người cũng theo các đạo giáo cổ truyền hay đạo giáo bộ lạc, ở mức độ khác nhau về lễ nghi được ấn định cũng như về giáo huấn chính thức của đạo giáo. Giáo Hội hết sức tôn trọng những truyền thống này và t́m cách để đối thoại chân thành với các môn đồ của các truyền thống ấy. Các gía trị về đạo nghĩa nơi những truyền thống này đang đợi chờ để được nên trọn nơi Chúa Giêsu Kitô.

 

Dân Á Châu hănh diện về các gía trị đạo nghĩa và văn hóa của ḿnh, như gíá trị về việc yêu thích thinh lặng và chiêm niệm, về tính chất đơn thành, thuận ḥa, thanh thoát, bất bạo động, tinh thần cần cù làm việc, kỷ cương, sống tiết kiệm, khao khát học hỏi và t́m hiểu triết lư (x. Lineamenta, đoạn 3). Họ tha thiết giữ các gía trị về việc tôn trọng sự sống, về ḷng thương cảm đối với hết mọi sự vật, về việc sống gần gũi với thiên nhiên, về ḷng hiếu kính đối với cha mẹ, với người già cả và với ông bà tổ tiên, cũng như về cảm quan cộng đồng cao độ (x. ibid.). Họ đặc biệt coi gia đ́nh chính là nguồn sinh lực sống c̣n, là một cộng đoàn quyện chặt lấy nhau bằng một cảm quan liên kết mạnh mẽ (x. Propositio, đoạn 32). Các người dân Á Châu nổi tiếng về tinh thần khoan ḥa theo tôn giáo và về việc chung sống thuận ḥa. Tuy không thể phủ nhận được là có những căng thẳng gay cấn và những xung khắc nẩy lửa đă xẩy ra, người ta vẫn có thể nói rằng, Á Châu thường tỏ ra cho thấy nó có một khả năng đặc biệt trong việc dung hợp, cũng như có một tính cách cởi mở tự nhiên, đối với việc hỗ tương làm cho các dân được phong phú trong một t́nh trạng đa dạng về tôn giáo và văn hóa. Ngoài ra, mặc dù bị ảnh hưởng bởi trào lưu tân tiến hóa và thế tục hóa, các tôn giáo Á Châu vẫn đang tỏ ra cho thấy những dấu hiệu sinh động cả thể, cũng như cho thấy có khả năng canh tân cải tiến, như được thấy xẩy ra nơi những phong trào đổi mới thuộc các nhóm tôn giáo khác nhau. Nhiều người, nhất là giới trẻ, đang thực sự cảm nghiệm thấy một nỗi khát khao những giá trị thiêng liêng, như rơ ràng chứng tỏ nơi việc xuất hiện của các phong trào đạo giáo mới mẻ.

 

Tất cả những điều này nói lên một minh thức thiêng liêng bẩm sinh và khôn ngoan về luân lư nơi hồn thiêng Châu Á, và là cốt lơi cho cảm quan ‘là dân Á Châu’ càng ngày càng tăng lên. Cái cảm quan ‘là dân Á Châu’ này thật sự được nhận thức và nhận định không phải với tính cách khiêu khích nhau và đối chọi nhau, nhưng trong một tinh thần tương trợ cho nhau và ḥa hợp với nhau. Trong khung cảnh tương trợ và ḥa hợp này, Giáo Hội có thể truyền đạt Phúc Âm bằng một đường lối trung thành với cả Truyền Thống của ḿnh cũng như với hồn thiêng Châu Á”.

 

(cùng nguồn, đoạn 6)

 

 

Á Châu có một lịch sử Kitô Giáo lâu đời như chính lịch sử của Giáo Hội Kitô Giáo, song lại là một lịch sử bị gián đoạn, bất toàn và không đạt đến mức trọn vẹn tối đa, cần phải được tiếp tục cho đến hoàn thành.

 

·        Lịch sử của Giáo Hội Tại Á Châu lâu đời như chính Giáo Hội, v́ chính ở tại Á Châu, Chúa Giêsu đă thở Chúa Thánh Thần trên các môn đệ của Người, và đă sai các vị đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng và thành lập các cộng đồng tín hữu. ‘Như Cha đă sai Thày thế nào, Thày cũng sai các con như vậy’ (Jn 20:21; cũng xem cả Mt 28:18-20; Mk 16:15-18; Lk 24:47; Acts 1:8). Theo lệnh Chúa truyền, các vị Tông Đồ đă rao giảng lời Chúa và đă thành lập các Giáo Hội. Cũng cần phải nhắc lại nơi đây một số yếu tố của gịng lịch sử lạ lùng và phức tạp này.

 

Từ Gialiêm, Giáo Hội lan tới Antiôkia, tới Rôma và xa hơn nữa. Giáo Hội lan tới Êthiôpia ở miền Nam, Scythia ở miền Bắc, tới Ấn Độ ở miền Đông, nơi mà theo truyền tụng Thánh Tôma Tông Đồ đă đặt chân tới vào năm 52 và đă thành lập các Giáo Hội ở miền Nam Ấn. Đáng chú ư là tinh thần truyền giáo của cộng đồng Syria phía Đông vào thế kỷ thứ ba và thứ tư, có trung tâm ở Edessa. Các cộng đoàn khắc khổ của Syria là một lực lượng chính cho việc truyền bá phúc âm hóa ở Á Châu từ thế kỷ thứ ba trở đi. Họ cung cấp một nghị lực thiêng liêng cho Giáo Hội, nhất là trong những thời gian cấm cách. Vào cuối thế kỷ thứ ba, quốc gia đầu tiên hoàn toàn theo Kitô Giáo là Armenia, nay đang sửa soạn mừng 1700 năm được lănh nhận phép thánh tẩy của ḿnh. Vào cuối thế kỷ thứ năm, sứ điệp Kitô Giáo đă lan tới các vương quốc Ả Rập, thế nhưng, v́ nhiều lư do, bao gồm cả lư do chia rẽ nhau giữa những người Kitô hữu, sứ điệp này đă không ăn sâu nơi các dân tộc này.

 

Các người giao thương Ba Tư đă đem Tin Mừng đến Trung Hoa vào thế kỷ thứ năm. Giáo Hội Kitô Giáo đầu tiên được thiết lập ở Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ bảy. Trong thời Nhà Đường (618-907 AD), Giáo Hội phát triển gần hai thế kỷ. Việc xuống dốc của Giáo Hội sinh động ở Trung Hoa vào cuối thiên niên thứ nhất này là một trong những trang sử đau thương hơn hết trong lịch sử Dân Chúa ở địa lục này.

 

Vào thế kỷ 13, Tin Mừng được loan báo cho các người Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ, cho cả người Trung Hoa một lần nữa. Thế nhưng, Kitô Giáo hầu như đă biến mất ở những miền này v́ một số lư do, trong đó có việc nổi dậy của Hồi Giáo, việc cô lập về địa dư, việc thiếu thích ứng xứng hợp với các thứ văn hóa địa phương, và nhất là có lẽ v́ thiếu sửa soạn để giáp diện với các tôn giáo lớn ở Á Châu. Việc suy giảm thảm thương của Giáo Hội Tại Á Châu, trừ cộng đồng bị cô lập ở Nam Ấn, đă xẩy ra vào cuối thế kỷ 14. Giáo Hội Tại Á Châu đă phải đợi chờ một kỷ nguyên của công sức truyền giáo mới.

 

Những lao nhọc làm việc tông đồ của Thánh Phanxicô Xaviê, việc Đức Grêgôriô XV thành lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, và những chỉ thị cho các nhà thừa sai phải tôn trọng và cảm nhận các nền văn hóa địa phương, tất cả đă đóng góp vào việc thâu đạt được những thành quả khả quan hơn trong giai đoạn thế kỷ 16 và 17. Vào thế kỷ 19, lại tái diễn công cuộc hoạt động truyền giáo. Các hội ḍng khác nhau đă hết sức dấn thân thực hiện công việc này. Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin được tổ chức lại. Việc thiết lập các Giáo Hội địa phương được nhấn mạnh hơn. Các công cuộc về giáo dục và bác ái sát cánh với với việc rao giảng Phúc Âm. Kết quả là Tin Mừng đă tiếp tục lan tới nhiều người hơn, nhất là nơi thành phần nghèo nàn và không được ưu đăi, nơi cả một số thành phần có thế gía về xă hội và trí thức. Những nỗ lực mới được thực hiện trong việc hội nhập Tin Mừng, tuy những nỗ lực này không đi đến đâu. Mặc dù đă hiện diện qua nhiều thế kỷ và đă thực hiện nhiều nỗ lực tông đồ, Giáo Hội tại nhiều nơi vẫn bị coi như là một thứ ngoại bang đối với Á Châu, và dân chúng thực sự nghĩ rằng các Giáo Hội này thường dính dáng tới quyền lực thuộc địa.

 

... Trong một thế giới rất khác biệt về văn hóa ở Á Châu, Giáo Hội phải đối diện với nhiều thách đố về triết lư, thần học và mục vụ. Công việc của Giáo Hội càng trở nên khó khăn hơn bởi t́nh trạng thiểu số của ḿnh, trừ duy một ḿnh Phi Luật Tân là nơi Công Giáo chiếm đa số.

 

Bất cứ gặp hoàn cảnh nào đi nữa, Giáo Hội Tại Á Châu cũng phải ở giữa dân chúng, thành phần tỏ ra thiết tha khát vọng Thiên Chúa. Giáo Hội biết rằng nỗi khát vọng này chỉ có thể được hoàn toàn thỏa măn bởi Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa cho tất cả mọi dân nước”.

 

(cùng nguồn, đoạn 9)

 

 

Giáo Hội Tại Á Châu đang phải đương đầu với vấn đề hết sức tế nhị và nhức nhối, đó là vấn đề làm sao để loan truyền cho dân chúng Á Châu chân lư Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất, để làm cho họ thực sự và hoàn toàn tin nhận Người.

 

·        Thật vậy, ngay khi c̣n trong giai đoạn tham vấn trước Cuộc Thượng Hội, nhiều vị Giám Mục Á Châu đă quan tâm tới những khó khăn nơi việc loan báo Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất. Trong Cuộc Thượng Hội, vấn đề được tŕnh bày như sau: ‘Một số môn đồ của các tôn giáo lớn khác ở Á Châu không gặp trục trặc ǵ về việc chấp nhận Chúa Giêsu như là một biểu hiện của Thần Linh hay của Đấng Tối Cao, hoặc như là một ‘vị được minh tri’. Thế nhưng, họ khó có thể coi Người như là một biểu hiện duy nhất của Thần Linh (Relatio Ante Disceptationem, đoạn 5). Thật vậy, nỗ lực để chia sẻ tặng ân đức tin vào Chúa Giêsu như Đấng Cứu Thế duy nhất gắn liền với những khó khăn về triết lư, văn hóa và thần học, nhất là gắn liền với những khó khăn về niềm tin nơi các tôn giáo lớn ở Á Châu, là những ǵ đă sâu xa kết chặt vào các gía trị văn hóa cũng như vào các vũ trụ quan riêng biệt.

 

Theo ư nghĩ của các vị Nghị Phụ trong Thượng Hội th́ cái khó khăn này c̣n được nối kết với sự kiện là Chúa Giêsu thường được coi như người ngoại quốc đối với Á Châu. Thật là ngược đời ở chỗ, hầu hết dân Á Châu có khuynh hướng coi Chúa Giêsu, vị được sinh ra tại đất Á Châu, như là một người Tây Phương hơn là một nhân vật Á Châu. Khó có thể tránh được việc các vị thừa sai Tây Phương loan báo Phúc Âm bị chi phối bởi các thứ văn hóa của quê hương xứ sở của các vị. Các Nghị Phụ Thượng Hội đă nh́n nhận điều này là một sự kiện không thể tránh được trong lịch sử truyền bá phúc âm hóa...

 

... Bởi thế, công việc loan truyền Chúa Giêsu bằng đường lối làm sao cho dân chúng Á Châu nhận ra Người giống như họ, trong khi vẫn trung thành với cả tín lư về thần học của Giáo Hội và trung thành với cả các nguồn gốc riêng của Á Châu, quả là một thách đố ngất trời”.

 

(cùng nguồn, đoạn 20)

 

 

Để loan báo Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất của loài người, Giáo Hội Tại Á Châu phải vừa hội nhập văn hóa lại phải vừa trung thành với căn tính Kitô Giáo của ḿnh nữa.

 

·        Việc tŕnh bày Chúa Giêsu Kitô như là một Đấng Cứu Thế duy nhất cần phải có phương pháp để đem con người từ từ đến việc hoàn toàn thấu triệt được mầu nhiệm này. Hiển nhiên là việc truyền bá phúc âm hóa tiên khởi cho những người ngoài Kitô giáo và việc tiếp tục loan báo Chúa Kitô cho tín hữu khác nhau về phương pháp. Chẳng hạn, trong việc loan báo tiên khởi, th́ ‘việc tŕnh bày về Chúa Giêsu Kitô có thể như là một việc làm thỏa măn những khát khao được bộc lộ qua các huyền thoại và truyền thuyết của những người dân Á Châu’ (Relatio Post Disceptationem, đoạn 15). Nói chung, các phương pháp kể truyện quen thuộc với các h́nh thức văn hóa Á Châu phải được coi trọng. Thật vậy, việc loan báo Chúa Giêsu Kitô có thể gây tác dụng nhất bằng cách kể truyện về Người như Phúc Âm đă từng làm. Những quan niệm siêu h́nh trong truyện kể, những quan niệm bao giờ cũng phải được nghĩ tưởng và bày tỏ khi nói về Chúa Giêsu, có thể được dẫn giải bằng những phối cảnh tương quan, phối cảnh lịch sử và ngay cả phối cảnh về vũ trụ nữa. Các Nghị Phụ của Thượng Hội đề nghị là Giáo Hội phải cởi mở hơn đối với những cách thức mới mẻ và lạ lùng làm cho dung nhan của Chúa Giêsu được tŕnh bày theo kiểu Á Châu (x. ibid.).

 

Thượng Hội đề nghị là việc dạy giáo lư sau này phải theo ‘phương pháp gợi bày, bằng việc dùng những câu truyện, dụ ngôn và các biểu tượng có đặc tính phương pháp giảng dạy của Á Châu’ (ibid.). Sứ vụ của chính Chúa Giêsu tỏ tường cho thấy giá trị của việc tiếp xúc riêng tư, một việc tiếp xúc đ̣i nhà truyền bá phúc âm hóa chú ư đến t́nh trạng của thính giả, để làm cho việc loan báo thích ứng với tŕnh độ trưởng thành của người nghe, cũng như bằng một thể thức và ngôn từ thích hợp. Theo quan niệm này, Các Nghị Phụ Thượng Hội đă nhiều lần nhấn mạnh đến nhu cầu truyền bá phúc âm hóa bằng cách thức đánh động cảm t́nh của những người dân Á Châu, và các vị cũng đề nghị h́nh ảnh về Chúa Giêsu cần phải được tỏ hiện đối với tâm trí và văn hóa Á Châu, đồng thời vẫn trung thành với Thánh Kinh và Truyền Thống. Trong số các h́nh ảnh này có h́nh ảnh ‘Chúa Giêsu Kitô là Vị Tôn Sư Khôn Ngoan, là Đấng Chữa Lành, là Nhà Giải Phóng, là Vị Hướng Dẫn Thần Linh, là Đấng Minh Tri, là Người Bạn Cảm Thương Kẻ Nghèo Khó, là Người Samaritanô Nhân Từ, là Vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng Phục Tùng’ (Propositio, đoạn 6). Chúa Kitô có thể được tŕnh bày như Sự Khôn Ngoan Nhập Thể của Thiên Chúa, Đấng làm cho các ‘hạt giống’ của Sự Khôn Ngoan thần linh vốn có nơi đời sống, tôn giáo và dân chúng Á Châu sinh hoa kết trái (x. Relatio Post Disceptationem, đoạn 6). Giữa bao nhiêu khổ đau xẩy ra nơi dân chúng Á Châu, Người cần phải được loan báo như là một Vị Cứu Tinh, ‘Đấng có thể cống hiến ư nghĩa sống cho những ai chịu đớn đau và thống khổ khôn xiết tả’ (ibid.).

 

Đức tin được Giáo Hội hiến ban cho con cái nam nữ Á Châu của ḿnh không thể bị đóng khung trong những giới hạn về hiểu biết và diễn tả của bất cứ một nền văn hóa nhân loại đơn độc nào, v́ đức tin này siêu việt trên những giới hạn ấy và thực sự thách đố tất cả mọi nền văn hóa vươn lên tới những mực độ mới cao hơn trong việc hiểu biết và diễn đạt. Các Nghị Phụ của Thượng Hội Giám Mục Á Châu cũng thừa biết nhu cầu khẩn thiết của các Giáo Hội địa phương ở Á Châu trong việc tŕnh bày mầu nhiệm Chúa Kitô cho dân chúng, theo cung cách văn hóa của họ cũng như theo đường lối suy tư của họ. Các vị cho thấy rằng, một cuộc hội nhập văn hóa của đức tin như vậy nơi địa lục của các vị bao gồm cả việc tái khám phá ra dung nhan Á Châu của Chúa Giêsu, cùng những đường lối tương tự giúp cho các nền văn hóa Á Châu có thể nắm được tầm quan trọng cứu độ phổ quát nơi mầu nhiệm Chúa Giêsu cũng như nơi mầu nhiệm Giáo Hội của Người. (x. Relatio ante disceptationem, đoạn 5). Việc hiểu biết sâu xa về dân chúng cũng như về văn hóa của họ, điển h́nh nơi một số con người nên nhắc đến như Giovanni da Montecorvino, Matteo Ricci và Roberto de Nobili, cần phải được bắt chước áp dụng vào thời điểm hiện nay”.

 (cùng nguồn, đoạn 20)